Các loại hình khác

Về hai cổ vật niên đại thời Tùy ở Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh

​Đầu tháng 8 năm 2012, Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh đã phát hiện và sưu tầm được hai cổ vật độc đáo, niên đại thời Tùy (Bắc thuộc), gắn với chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng), huyện Long Biên, xứ Giao Châu xưa.

​1. Bia mộ tháp: gồm hai phần, úp khít vào nhau, hình vuông, kích thước (45cm x 46cm). Phần nắp đậy dày 4 cm, úp khít lên trên bia đá, mặt dưới tạo gờ nổi xung quanh, phía trên tạo góc bạt chéo hình trụ; phần dưới (thân bia) dày 9cm, được mài khá nhẵn xung quanh, một mặt khắc chữ Hán, còn rất rõ nét, gồm 133 chữ, chia thành 13 hàng. Nội dung cơ bản như sau:
Phiên âm:
Xá Lị tháp minh.
Duy Đại Tuỳ Nhân Thọ nguyên niên, tuế thứ Tân Dậu, thập nguyệt Tân Hợi, sóc thập ngũ nhật Ất Sửu. Hoàng đế phổ vi nhất thiết pháp giới, u hiển sinh linh, cẩn ư Giao Châu, Long Biên huyện, Thiền Chúng tự phụng an xá lợi, kính tạo linh tháp.
Nguyện Thái tổ Vũ Nguyên hoàng đế, Nguyên Minh hoàng hậu, hoàng đế, hoàng hậu, hoàng thái tử, chư vương, tử tôn đẳng, tịnh nội ngoại quần quan viên cập dân thứ, lục đạo, tam đồ, nhân phi nhân đẳng, sinh sinh thế thế, trị Phật văn pháp vĩnh ly khổ, không đồng thăng diệu quả.
Sắc sử Đại đức Tuệ Nhã pháp sư, Lại bộ Vũ Kỵ Uý Khương Huy tống xá lợi ư thử khởi tháp.
Lược dịch:
"Bài minh tháp Xá Lị.
Trước ngày Ất Sửu (tức ngày 15), tháng Tân Hợi (tháng 10), năm Tân Dậu niên hiệu Nhân Thọ năm thứ nhất (năm 601), nước Đại Tùy. Hoàng đế kính cẩn dựng ngôi bảo tháp và đặt Xá Lị tại chùa Thuyền Chúng (Thiền Chúng) thuộc huyện Long Biên đất Giao Châu để phổ độ cho muôn cõi sinh linh.
Cùng nguyện cầu cho Thái tổ Vũ Nguyên hoàng đế, hoàng hậu Nguyên Minh, chư vị hoàng đế, hoàng hậu, thái tử, con, cháu, thân thích trong hoàng tộc, tất thảy quần thần, thứ dân, chúng sinh trong cõi "lục đạo, tam đồ", Khẩn na la – Bát bộ chúng… đời đời, kiếp kiếp đều được theo Phật nghe Pháp, thoát li khổ ải, hưởng quả phúc lành.
Sắc cho pháp sư Đại đức Tuệ Nhã, Vũ kỵ uý Khương Huy, Bộ Lại dựng tháp và an vị xá lợi trong tháp".
2. Liễn (đỉnh) đá: Trên có nắp đậy cũng bằng đá, kích thước (45cm x 46cm x 8cm); lòng  liễn sâu 20cm, kích thước (26cm x 27,5cm).
Cả hai cổ vật trên được đều đặt trên một tấm đá hình chữ nhật dày 25cm, kích thước (65cm x 100cm).
Theo ông Nguyễn Văn Đức, thôn Xuân Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, hai cổ vật này đều do ông tìm được từ cuối năm 2004, trong lúc đào đất làm gạch ở khu vực cách chùa làng Xuân Quan hiện nay khoảng 20m. Ông Đức còn cho biết, khi ông đào đất làm gạch ngói, đã dùng máy múc để đào, các cổ vật bằng đá kể trên nằm ở độ sâu hơn 2m. Khi đào được các cổ vật này, bia mộ tháp có 2 phần úp khít vào nhau, có chất kết dính, phải cậy bằng mai đào đất mới tách ra được, vì thế, cạnh ngoài nắp đã bị sứt vỡ mấy miếng nhỏ nhưng không ảnh hưởng tới phần chữ khắc bên trong. Ở bên trong, khi cạy ra thấy sạch bóng, không có gì bám vào mặt, kể cả nước. Liễn đá có nắp đậy, bên trong có một ít tạp chất màu thâm đen, có thể là tro cốt? Sau khi đào được các cổ vật này, ông đem bia đá và nắp đá đậy trên liễn đá về nhà, phần còn lại gửi ở chùa làng Xuân Quan, từ đó đến nay ít người được biết.
Sau khi Phòng Nghiên cứu Sưu tầm báo cáo về tình hình các cổ vật quý hiếm này, lãnh đạo của Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh đã xuống làm việc với ông Nguyễn Văn Đức. Và, ông Đức đã quyết định hiến tặng hai cổ vật này cho Bảo tàng để nghiên cứu, bảo quản và phát huy tác dụng.
Mấy nhận xét, đánh giá bước đầu:
+ Về tên chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng) khắc trên bia, chúng tôi đã tra cứu nhiều tư liệu, duy chỉ có sách "Thiền uyển tập anh" – Quyển Hạ (trang 102) chép như sau: "Thiền sư Định Không (? – 808) ở chùa Thiền Chúng, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức". Tuy nhiên, phần chú ở cuối trang lại ghi: "Cảm ứng xá lợi ký do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 – dẫn trong "Quảng Hoằng Minh tập", có ghi chùa Thiền Chúng như là nơi dựng tháp rước Xá Lợi vào năm đó tại Giao Châu. "Thiền uyển tập anh" nói dựng tháp nơi chùa Pháp Vân, có lẽ hợp lý hơn".
Sách "Chùa Việt Nam" của GS. Hà Văn Tấn cũng ghi rõ: "Việc Tuỳ Văn Đế ra lệnh xây tháp Xá Lị trong khoảng các năm 601 – 604 được chép trong nhiều tài liệu Phật giáo Trung Quốc, như "Quảng Hoằng Minh tập", "Tập Trần châu Tam bảo hàm thông lục", "Tục cao tăng truyện", nhưng riêng ở Giao Châu chỉ thấy nói đến việc xây tháp ở chùa Thiền Chúng.
Địa điểm phát hiện các cổ vật trên nằm trong khuôn viên chùa của làng Xuân Quan (Huệ Trạch tự – thuộc hệ thống chùa thờ "Tứ pháp"), xã Trí Quả, huyện Thuận Thành ngày nay, cách thành Luy Lâu khoảng 800m.  Phật chủ chùa này là Đại thánh Pháp Thông vương Phật, thuộc hệ thống Tứ pháp ở vùng Dâu. Nhưng một điều đáng tiếc là, các tư liệu chữ Hán hiện còn ở chùa Huệ Trạch, trong đó tấm bia đá, tứ diện, khắc năm Chính Hoà thứ 20 (1699) đều không ghi chép thông tin gì về chùa Thiền Chúng xưa.
+ Về niên đại khắc bia mộ tháp ở chùa Thiền Chúng: nội dung bia ghi ở dòng thứ 2 là: "Trước ngày Ất Sửu (tức ngày 15) tháng Tân Hợi (tháng 10), năm Tân Dậu nước Đại Tuỳ, niên hiệu Nhân Thọ năm thứ nhất (601)". Bằng vào nguồn tư liệu hiện có, chúng tôi tạm khẳng định, bia mộ tháp Thuyền Chúng là tấm bia cổ nhất được tìm thấy ở Việt Namhiện nay.
Từ những thông tin phản ánh trong văn bia, chúng tôi tạm rút ra mấy vấn đề về lịch sử – văn hóa có liên quan như sau:
– Bia mộ tháp chùa Thiền Chúng là một di sản văn hóa vật thể độc đáo, có niên đại sớm nhất, văn bản khắc trên bia có tên huyện Long Biên, xứ Giao Châu (sớm nhất) và một số thông tin, nhân vật lịch sử, là tư liệu quan trọng/minh chứng cho việc xác định Long Biên xưa thuộc khu vực Luy Lâu.
– Chùa Thiền Chúng (ghi trong bia mộ tháp) là một ngôi chùa được xây dựng trên đất Việt khá sớm (năm 601), sau khi bị đổ nát, đã bị lãng quên trong lịch sử. Tuy nhiên, những di vật gắn với chùa hiện còn là bằng chứng vật chất đáng tin cậy để chúng ta tìm hiểu về lịch sử – văn hóa của vùng đất cổ Luy Lâu cũng như việc tìm hiểu về đạo Phật trên đất nước ta thời đương thời.
– Hai cổ vật nêu trên là những di vật quý hiếm, có giá trị độc đáo, việc tìm hiểu kỹ những thông tin liên quan sẽ giúp ích trong việc tìm hiểu về vùng đất cổ Luy Lâu – vùng đất đang còn nhiều vấn đề lịch sử – văn hóa tiềm ẩn, cần được tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ.
Từ ngày 8/8/2012, hai cổ vật này đã được bàn giao cho Bảo tàng Bắc Ninh và thu hút được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu. Đương nhiên, những vấn đề liên quan đến nguồn gốc, niên đại cụ thể, hành trạng các nhân vật được nhắc tới trong văn bia cũng như giá trị về mọi mặt của hai cổ vật này cần phải được nghiên cứu thêm. Hi vọng, những ẩn số về lịch sử – văn hóa liên quan đến hai cổ vật đặc biệt này sẽ sớm được giải mã.​

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *