Di sản

Đình Tây Đằng – ngôi đình đẹp xứ Đoài

Đình Tây Đằng là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc văn hóa đặc biệt độc đáo, đầy ắp các di vật quý giá cả về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của ông cha. Với những giá trị văn hóa, kiến trúc, chạm khắc, tài hoa, sống động, đình Tây Đằng như một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ 16 và là di sản văn hóa kiến trúc độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ con cháu muôn đời sau.

Xứ Đoài xưa, hay còn gọi là trấn Sơn Tây hoặc trấn Hưng Hóa, là miền quê có nhiều ngôi đình nổi tiếng của người Việt cổ. Đình Đoài mang dáng vóc kiến trúc kỳ vĩ, ý nghĩa tâm linh sâu sắc.

Đình Tây Đằng

Là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, Đình Tây Đằng (thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì) đã ngót 500 năm tuổi, được xây dựng vào thời nhà Mạc năm Đại Chính nhị niên (1531). Ngôi đình thờ Đức Thánh Tản Viên Đệ Nhất Phúc Thần. Toàn bộ khu đình nằm trên một khuôn viên rộng lớn, thoáng đẹp, hướng Nam mé Tây trông về đền Đức Thánh Tản trên núi Ba Vì. Đi qua cổng chính ta bắt gặp một hồ nước lớn, nơi giao hòa giữa trời cha đất mẹ dâng đầy linh khí. Tiếp đến là nghi môn, gồm bốn cột đồng trụ, hai cột thấp bên trên có hai nghê chầu, hai cột cao, bên trên mỗi đầu cột có bốn chim phượng uốn lượn vút lên như một bông hoa dành dành, thể hiện thế nghiêm thiêng của ngôi đình. Hai phía bên phải và bên trái là tả vu và hữu vũ. Hạng mục công trình này nhằm làm những công việc chuẩn bị cho việc khánh tiết. Nhà tả vu và hữu vu đã bị đổ nát từ lâu, mãi đến khi tiến hành trùng tu ngôi đình thì mới được dựng lại. Đầu hồi phía phải của ngôi đình là một giếng cổ, nguồn nước đá ong bốn mùa trong xanh. Giếng này trước đây nằm ngoài hàng rào của khuôn viên đình, nay mới được đưa vào trong, làm cho ngôi đình càng thêm linh diệu hơn. Sau nghi môn là một sân rộng, nơi tổ chức lễ hội vào dịp xuân về hoặc những ngày cúng tế.

Giếng nước cổ ở đầu hồi bên phải Đình Tây Đằng

Hai bên sân có tả mạc, hữu mạc dẫn vào đại đình. Trước đây, thềm đại đình chỉ cao khoảng 40 cm đủ một bước chân, sau khi trùng tu, thềm đã được nâng thành bậc tam cấp cao 75cm. Sàn đình rộng 360m2, được bố cục kiểu 3 gian với sáu hàng cột: Hai cột cái, hai cột quân và hai cột con, đó cũng là nét đặc trưng của những ngôi đình cổ. Tất cả các cột đều theo lối “thượng thu hạ thách” kiểu dáng bông đòng đòng, “ngồi” trên chân tảng đá ong. Tất cả các cột quân và cột con đều có xu hướng choãi ra, tạo thế mở rộng vùng chân đế và hạ thấp trọng tâm của ngôi đình nhằm tăng độ ổn định, bền vững cho công trình. Đỡ thượng lương là giá chiêng chồng rường kiểu “chồng nhị”. Gian chính giữa đình là bàn thờ Đức Thánh có cửa võng, y môn, lọng che, hai giàn bát bửu và đôi hạc chầu. Gian thờ quanh năm đóng cửa, trừ những ngày lễ hội, nhưng do đông khách thăm viếng nên gian thờ lúc nào cũng nghi ngút khói hương, không khí thật trang nghiêm! Các gian hai bên còn lại được bố trí sạp ngồi của các quan viên trong những ngày lễ hội hay khi việc làng. Kết cấu được giữ nguyên theo kiểu nhà sàn của người Việt cổ vùng sơn cước. Khác biệt của đình Tây Đằng so với các ngôi đình còn lại là không có ván thưng xung quanh, nhờ đó công trình trở nên thông thoáng hơn và bền vững với thời gian. Do đình thấp nên người Việt cổ đã chọn kết cấu rất sáng tạo, mặc dù không có quá giang: Liên kết cột cái với cột cái là câu đầu, cột cái với cột quân là xà nách. Trên xà nách là chồng rường tạo độ dốc cho mái. Kẻ liền bẩy kéo dài từ cột quân vươn dài đến tàu mái. Hệ thống xà thượng, giằng đầu các cột cái, cột quân và cột con lại với nhau theo chiều dài của ngôi đình. Cột con đỡ thẳng vào bẩy không qua ngàm, như vậy tạo cho bẩy không bị tiết diện giảm yếu khi liên kết với cột con làm cho công trình vững chắc hơn. Bí quyết để cấu trúc công trình được ổn định và bền vững là ở chỗ dùng mộng thắt đuôi én, ngoàm và nêm chắc đầu cột cũng như các cột quân, cột con choãi chân thang ra ngoài. Do đặc tính của công trình như vậy nên ngay cả sau khi đã tháo toàn bộ sạp và các xà chân cột, công trình hoàn toàn không suy xuyển gì, vẫn vững vàng cùng năm tháng.

Một số họa tiết trang trí gỗ trên vỉ kèo Đình Tây Đằng

Đình Tây Đằng có tới 1.300 họa tiết được chạm khắc hết sức tinh xảo, đậm nét tài hoa của những con người làm ra nó. Nét đặc biệt có một không hai của ngôi đình này là không một chi tiết nào giống nhau, từ họa tiết kẻ liền bẩy bốn góc, kẻ liền bẩy vì chính, đến các đầu dư đầu duôi, xà thượng, các chồng rường, bát đỡ, câu đầu, chếnh xối, ván nong… đều là những tác phẩm nghệ thuật kiệt tác. Mỗi hoa văn một kiểu, các họa tiết hoa văn mang tính đặc sắc của các vùng miền văn hóa khác nhau như: Họa tiết người nông dân trồng cấy lúa của vùng đồng bằng Bắc Bộ, quăng chài bắt cá của vùng sông nước miền duyên hải, đua thuyền của Nam Bộ, chơi đàn tính của đồng bào Tày Nùng, voi chầu của vùng Tây Nguyên, ngựa hý của vùng cao, đấu vật kéo co trong ngày lễ hội mang màu sắc dân gian, cá vượt vũ môn hóa rồng, bộ tứ linh, trời mây hoa lá rất phong phú, có tới vài chục nữ thần cưỡi mây bay lượn trên bầu trời. Các nữ thần được bố trí trên các đầu duôi khắp bốn phía sát mái đình, hình tượng các nữ thần đầu quấn khăn như những Apxara, cũng với hình tượng Bà Banh mang ý nghĩa phồn thực đậm phong cách của các nghệ nhân Chămpa. Nghệ thuật Chămpa không chỉ thấy riêng ở đình Tây Đằng mà còn gặp ở đình Yên Bồ cũng gần đấy. Bà Banh đình Tây Đằng đặt ở con chồng nằm trên vị trí xà nách. Bà Banh ở đình Yên Bồ đặt trên giữa thượng cung, phía trước bài vị Thành Hoàng làng, gây một cảm giác tín lễ của phong tục Chăm, cùng với chiếc gậy hỉ. Khi người nào hiếm con trai đều đến xin cầu tự ở đây. Ông Từ làm lễ cúng Thành Hoàng xong, người chồng cầm gậy hỉ chọc vào khe linh của Bà Banh ba lần. Sau chín tháng mười ngày là đạt được linh ứng. Thể thức tín ngưỡng này giống như Linga và Yoni nguyên bản vùng tháp Chàm và Tây Nguyên.

Một số mẫu điêu khắc

Năm 2005, Bộ Văn hóa đã chủ trì việc trùng tu ngôi đình. Cột gỗ mít và thông đỏ được thay thế bằng gỗ lim, các chân tảng bằng đá ong được thay bằng đá xanh. Chỉ còn một vài cột cái, cột quân và một phần cột con là cố giữ lại. Các họa tiết đặc biệt quý hiếm của đình Tây Đằng vẫn được bảo tồn nguyên giá trị vốn có. Việc trùng tu đã đảm bảo kĩ thuật tốt, đảm bảo độ vững chãi của ngôi đình. Tiếc rằng, toàn bộ các cột được thay thế chỉ giữ lại được phần thượng thu hạ thách, còn dáng kiểu bông đòng đòng thì đã không còn, nên phần nào xa cách với di sản xưa. Bốn trụ đăng nghi môn cũng chỉ giữ lại được phần trụ lớn về phía bên phải của ngôi đình. Đỉnh trụ bốn góc chạm bốn con phượng uốn lượn thành bông hoa dành dành. Dáng trụ thanh thoát và nghệ thuật rất tinh xảo tiếc rằng, trụ lớn phía đối diện và hai trụ con hai bên đắp còn thô lược. Hậu thế không thể bắt trước được Tiền nhân.

Đình Tây Đằng là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc văn hóa đặc biệt độc đáo, đầy ắp các di vật quý giá cả về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của ông cha. Với những giá trị văn hóa, kiến trúc, chạm khắc, tài hoa, sống động, đình Tây Đằng như một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ 16 và là di sản văn hóa kiến trúc độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ con cháu muôn đời sau. Hãy biết bảo tồn, tôn tạo và gìn giữ di sản đặc biệt quý giá này.

KTS Nguyễn Địch Long

 

Theo Trung tâm Thông tin Triển lãm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *