Ngày 24/6, tại Hà Nội, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học Quốc gia “Không gian an toàn cho phụ nữ và trẻ em – Khuyến nghị chính sách”.
Với mục tiêu cung cấp căn cứ khoa học và thực tiễn để đề xuất các giải pháp tăng cường hơn nữa không gian an toàn cho phụ nữ, trẻ em, các tham luận, báo cáo tại hội thảo sử dụng các kết quả nghiên cứu cập nhật, đặt kết nối không gian gia đình với các chính sách, dịch vụ xã hội, các động lực từ khu vực thị trường, cộng đồng, từ đó phân tích những khoảng trống về chính sách, hướng can thiệp, nghiên cứu, kiến nghị giải pháp đảm bảo an toàn cho phụ nữ và trẻ em.
Đây cũng là một trong các hoạt động thực hiện chủ đề năm 2019 “An toàn cho phụ nữ và trẻ em” do Hội LHPN Việt Nam phát động, được tổ chức trong bối cảnh có nhiều vấn đề đáng lưu tâm liên quan đến việc đảm bảo an toàn cho phụ nữ và trẻ em hiện nay.
Năm 2018, có tới 8.056 phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, chiếm 85,14% tổng số người bị bạo lực gia đình. Theo thống kê của UN Women, 34,4% phụ nữ Việt Nam từng bị bạo lực tình dục, xếp thứ hai ở khu vực Đông Nam Á.
Đối với trẻ em, năm 2018 có 1.579 trẻ em bị xâm hại và hơn 2.000 vụ bạo lực học đường được phát hiện. Trung bình mỗi ngày có 4,6 trẻ em bị xâm hại tình dục. Cùng với đó, ngày càng nhiều vụ xâm hại, quấy rối tình dục xảy ra tại nơi làm việc và nơi công cộng gây bức xúc dư luận.
Mặc dù đã có nhiều chương trình, chính sách và mô hình can thiệp, bảo vệ, tuy nhiên những hoạt động này chưa đủ so với các vụ việc cũng như nguy cơ mất an toàn của phụ nữ, trẻ em xảy ra hiện nay.
Thực trạng này đặt ra yêu cầu về việc xem xét một cách kỹ lưỡng tất cả các chiều cạnh, không gian về an toàn cho phụ nữ và trẻ em, kết hợp với các đặc thù kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước hiện nay nhằm đảm bảo không gian an toàn bao trùm, hiệu quả, đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em để nhóm dân số này đóng góp tốt hơn vào quá trình phát triển của đất nước.
Báo cáo đề dẫn do PGS.TS Trần Thị Minh Thi, Viện trưởng Viện nghiên cứu Gia đình và Giới nhấn mạnh, khái niệm về không gian an toàn xuất hiện trong phong trào phụ nữ vào cuối thế kỷ XX và có một lịch sử sống động với sự phát triển của các phong trào nữ quyền, đa dạng tính dục, chống phân biệt chủng tộc. Ý tưởng về không gian an toàn xuất hiện từ thực tiễn của phong trào phụ nữ và nhóm thiểu số hoạt động về tình dục trong nửa thế kỷ qua với mục đích tạo ra không gian không có các thái độ và hành vi áp bức.
Bản chất một không gian an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái là nơi họ có thể tới bất kỳ khi nào với cảm giác an toàn, được trao quyền và có thể tiếp cận thông tin, giáo dục, hoạt động giải trí, hỗ trợ, dịch vụ. Những không gian này hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái phục hồi sau bạo lực, hình thành mạng lưới hỗ trợ, tiếp cận an toàn và cơ hội. Đây thường là những không gian tích hợp cung cấp một loạt các dịch vụ bao gồm các nguồn lực, thông tin, mạng lưới xã hội, đến các dịch vụ chăm sóc lâm sàng thiết yếu và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Bà Elisa Fernandez, Trưởng Văn phòng UN Women tại Việt Nam cho biết, các cam kết quốc tế và khu vực về xóa bỏ bạo lực đối với nữ lao động di cư chủ yếu gồm: Chương trình nghị sự 2030 với mục tiêu số 5 nhấn mạnh tầm quan trọng của bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, ngoài ra các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) 8, 16 đặt vấn đề về việc làm thỏa đáng cho cả nam và nữ, xóa bỏ lao động cưỡng bức, và chấm dứt nạn mua bán người; Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW); Tuyên bố cấp cao về Di cư quốc tế và Phát triển và các cam kết ASEAN.
Đưa ra khuyến nghị, bà Elisa Fernandez cho rằng, Việt Nam cần xem xét phê chuẩn các cam kết quốc tế liên quan, bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về Bảo vệ Quyền của tất cả lao động di cư và các thành viên của họ (1990) và Công ước về Lao động Giúp việc Gia đình (2011); xây dựng, thực hiện chính sách kế hoạch về lao động, di cư, bảo trợ xã hội có trách nhiệm giới bao gồm việc phân bổ ngân sách cho việc giải quyết tình hình bạo lực đối với nữ lao động di cư; đánh giá tác động chính sách, luật pháp giải quyết phân biệt đối xử và bạo lực đối với nữ lao động di cư; phòng ngừa bạo lực đối với nữ LĐ di cư bao gồm quy định liên quan đến trung gian, tuyển dụng, nâng cao năng lực và nhận thức của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội…
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Trịnh Thị Thủy cho biết, Bộ VHTTDL, trong chức năng, nhiệm vụ của mình, đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện các chính sách về lĩnh vực gia đình. Trong đó, đã hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình giáo dục đời sống gia đình; trình Thủ tướng phê duyệt Đề án phát huy giá trị tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm hỗ trợ gia đình phát triển bền vững; cụ thể hóa chức năng nhiệm vụ của Bộ trong lĩnh vực quan lý nhà nước về gia đình.
Thứ trưởng Trịnh Thị Thủy cho rằng, với chức năng của Bộ VHTTDL, Bộ đã nỗ lực, cố gắng với mong muốn hoàn thiện các chính sách về vấn đề gia đình, nhưng để giải quyết những tồn tại như bạo lực gia đình, không chỉ là chức năng, nhiệm vụ của Bộ VHTTDL. Đặc biệt, vấn đề chế tài để xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến nhiều cơ quan. Bộ VHTTDL mong muốn có sự nỗ lực, hợp tác của các Bộ, ngành liên quan để công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực gia đình được thực hiện tốt và hiệu quả.
Hội thảo là cơ hội để các nhà hoạch định chính sách, quản lý nhà nước, nhà nghiên cứu và thực hành xã hội cùng trao đổi, xây dựng một bản đồ tích hợp những không gian mà phụ nữ và trẻ em là chủ thể, chỉ ra những khu vực mất an toàn và nguyên nhân gốc rễ của vấn đề, từ đó, xác định được những nội dung cần quan tâm về xây dựng chính sách, nghiên cứu, can thiệp nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ em một cách hiệu quả.
Bảo Hân
Theo MaskOnline