Sự kiện

Xin chữ đầu Xuân – nét đẹp văn hóa của người Việt

“Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bày mực tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua”. Câu thơ nhắc đến tục xin chữ ngày xuân, vốn là nét văn hoá đặc trưng của người Việt, bắt nguồn từ sự hiếu học, sự trọng chữ, trọng tri thức. Nét đẹp văn hóa […]

“Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bày mực tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua”. Câu thơ nhắc đến tục xin chữ ngày xuân, vốn là nét văn hoá đặc trưng của người Việt, bắt nguồn từ sự hiếu học, sự trọng chữ, trọng tri thức. Nét đẹp văn hóa ấy đến nay vẫn được trân trọng, lưu truyền.

Tục xin chữ đầu năm…

Xin chữ tại Phố ông Đồ, thành phố Hồ Chí Minh.
Không biết từ bao giờ, cứ chờ đến năm hết, Tết đến, xuân sang, trên khắp phố phường và khắp mọi miền quê, nhiều những ông Đồ hay chữ, bày nghiên bút, giấy bản nhuộm điều, niềm nở đón người qua đường ghé xuống xin con chữ. Người cho chữ là ông Đồ túc nho và người xin chữ thường là những chủ nhà cầu mong những tin mừng cùng những vận hội mới trong cuộc đời và đặc biệt là những nhà có người theo học, mong được con chữ của Thánh hiền, giáng ứng cho may mắn trong học hành thi cử. Khi xin được câu đối hay con chữ linh thiêng như ý, đem về nhà treo vào nơi trang trọng nhất, linh ứng nhất, dễ ngắm nhìn, để cầu nguyện thành đạt cho cuộc sống và cho học hành thi cử. Từ xa xưa, thói quen xin chữ và cho chữ vào những ngày đầu năm mới của người Việt được coi là điều thiêng liêng, một việc quan trọng của gia đình. Điều đó đã trở thành nét đẹp trong văn hóa của các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam ta từ nhiều thế kỷ, ngày càng được nối tiếp, thừa kế và gìn giữ.

Ngày xưa, xin chữ là một sự kiện rất đặc biệt, người ta chọn ngày, chọn hướng, tìm đến người mình tin tưởng, có đời sống đáng trân trọng noi theo. Người cho chữ phải là người dày công học hành, có thể chính là những ông đồ dạy học ở những làng quê hoặc phải là những người “có danh với núi sông”. Theo nhà thư pháp Cung Khắc Lược, xin chữ đầu năm chính là mong muốn của người xin chữ cho cả một năm mới mang đến những điều may mắn, bình an và phúc thọ tràn đầy. Mỗi bức thư pháp khi hoàn thành bao giờ cũng có hai con người đồng cảm, đó là bộ óc, trí tuệ của người cho chữ gặp trái tim, tâm hồn người xin chữ. Ngoài cầu may mắn, người ta còn muốn xin cái đức độ, tài năng của ông đồ và lấy chữ để răn mình. Đó cũng là một minh chứng về truyền thống hiếu học, trọng chữ nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Chữ Nho có thể viết theo nhiều cách, nên người cho chữ tùy tâm trạng, tùy hoa tay có thể tạo ra những hình tượng lạ mắt. Những ước vọng tốt đẹp cho một năm mới hạnh phúc, bình an được lồng trong những nét mực uyển chuyển. Mỗi chữ hiện ra dưới tay các thầy đồ không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật thư pháp mà còn bộc lộ tấm lòng, tính cách, tâm hồn và cả sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Chữ xin cũng tùy theo nguyện vọng của người xin chữ, nhưng đầu xuân năm mới mọi gia đình thường mong một cuộc sống bình an, từ đó người dân thường hay xin chữ “An”, chữ “Phúc” cho toàn thể gia đình, con cháu; người kinh doanh, buôn bán thì hay xin chữ “Hưng”, chữ “Thịnh”, chữ “Phát”, chữ “Lộc”, chữ “Tín”; người đi học thường xin chữ “Tài”, “Đăng khoa”, người cầu sức khỏe sống lâu xin chữ “Thọ”…, có người muốn rèn khả năng chịu đựng thường xin chữ “Nhẫn” vì có nhẫn có nhịn thì mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng, dữ thành lành…

Chữ thường được viết trên nền giấy đỏ, bởi màu đỏ vốn là màu rực rỡ nhất và theo quan niệm của người phương Đông còn duy trì tới ngày nay, màu đỏ là màu của sự sống và sự tái sinh, là biểu tượng của sự may mắn, nên trong ngày Tết mọi thứ đều có màu đỏ: hoa đào, câu đối, phong bao mừng tuổi… đều có màu đỏ.

Một bản sắc văn hoá truyền thống không thể nào mất

Sau năm 1954, do quan niệm tục xin chữ đầu xuân và viết chữ Nho bị cho là tàn dư của chế độ phong kiến nên người biết chữ Nho không ai dám viết và người dân cũng không dám xin chữ. Một tục văn hóa đẹp gần như bị lãng quên.

Nhưng rất may nó đã được hồi sinh nhờ các ông đồ già. Đầu thế kỷ XXI, một vài người tự phát ngồi viết chữ và bán câu đối ở dốc phố Bà Triệu. Rồi đoạn phố này đông dần và nay thì chuyển hẳn về Hồ Văn trước cửa Văn Miếu tạo thành phố và được dân gọi nôm là phố “ông Đồ”. Vậy là hơn ¼ thế kỷ qua, sự trở lại một cách mãnh liệt của tục xin chữ cho chữ, như làm dấy lên một trào lưu mới của học hành-thi cử, ai cũng mong muốn có được nhiều con chữ hơn để lập nghiệp khi vào đời.

Mấy năm trở lại đây, phố ông đồ bên cạnh Văn Miếu có thể coi là một “đặc sản” của Tết Hà Nội. Bên vẻ trầm mặc, u hoài của trường Giám ngày xưa đang lắng đọng rêu phong, thì “hồn dân tộc lại đang sáng bừng trên giấy điệp” trong những nét thư pháp tài hoa của những “ông đồ” trẻ tuổi, 7X và 8X. Ngoài các ông đồ già áo the khăn xếp là các ông đồ trẻ bụi bặm với quần jeans áo thun hay lịch lãm trong các bộ vest… Và không chỉ có ở Quốc Tử Giám Hà Nội, những “Phố ông Đồ” còn lan tỏa ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, ở các tụ điểm lễ hội vui xuân hay các đình, đền, chùa, miếu…

Đặc biệt, cứ vào dịp từ ngày 20 tháng Chạp đến 15 tháng Giêng hằng năm, Hội chữ Xuân thường được tổ chức ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám (Hà Nội) – điểm đến quen thuộc của hàng nghìn người từ khắp mọi miền đất nước đến xin chữ lấy may đầu năm. Hội chữ Xuân được tổ chức định kỳ còn nhằm mục đích tạo ra một sân chơi lành mạnh giúp các Thư pháp gia (Hán-Nôm và Quốc ngữ) có điều kiện trổ tài, sáng tác và người dân đi xin chữ có thể yên tâm, hân hoan mang về gia đình những bức thư pháp đúng, đẹp với nhiều ước nguyện tốt lành. Hội chữ Xuân là một sự kiện văn hóa thường niên nhằm tôn vinh truyền thống tôn sư trọng đạo, hiếu học của dân tộc, hội chữ cũng góp phần bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật thư pháp Việt Nam. Những câu đối, câu chúc bằng mực tàu trên giấy đỏ là những món quà tinh thần để đón chào năm mới, biểu thị cho những ước vọng đầu Xuân.

Tết lại đang về, một năm mới lại đến. Người người lại rủ nhau đi xin chữ cầu may đầu năm. Cùng với thời gian và sự chuyển biến của xã hội, mọi người vẫn nhớ tới nét đẹp văn hóa này là một điều đáng mừng. Tuy nhiên, việc xin chữ và cho chữ cần được trân trọng, bảo tồn và phát huy theo đúng với ý nghĩa nhân văn của phong tục này.

Theo TTXVN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *